Great satisfaction comes from sharing with others. Thanks for bringing Internet to life!

Hiển thị các bài đăng có nhãn Life Inspiring. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Life Inspiring. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016

Let love fly free - Hãy để yêu thương tự do



There was once a lonely girl who longed so much for love. One day while she was walking in the woods she found two starving songbirds. She took them home and put them in a small cage, caring them with love. Luckily, the birds grew strong little by little. Every morning they greeted her with a wonderful song. The girl felt great love for the birds. So she wanted to let the birds play with her.
Xưa kia, có một cô gái đơn độc khao khát tình yêu thương. Một ngày nọ, trong khi đang tản bộ vào khu rừng, cô bắt gặp hai chú chim nhỏ bị rơi. Thế là, cô mang chúng về nhà và bỏ vào một chiếc lồng nhỏ, chăm sóc chúng bằng tất cả tình yêu thương. Thật may mắn, hai chú chim ngày càng lớn lên khỏe mạnh từng chút một. Sáng nào chúng cũng chào cô bằng những tiếng hót tuyệt diệu. Cô gái cảm thấy thương hai chú chim vô cùng. Cô muốn chúng hót cho mình nghe mãi mãi.

One day the girl left the door to the cage open. The larger and stronger of the two birds flew from the cage. The girl was so frightened that he would fly away. She did not want them fly away and she only wanted them always stay with her. As he flew close, she grasped him wildly. Her heart felt glad at her success in capturing him.

Rồi một ngày nọ, cô gái quên đóng cửa lồng chim. Chú chim lớn và khỏe hơn bay ra khỏi lồng. Cô gái hốt hoảng lo sợ chú chim sẽ bay đi mất. Cô không muốn chúng bay đi mất mà cô chỉ muốn chúng ở mãi bên mình. Cho nên khi chú chim bay sát người cô, cô vội chộp lấy nó. Cô rất đỗi vui mừng vì đã tóm được chú chim ấy.

Suddenly she felt the bird go limp. She opened her hand and stared in horror at the dead bird. Her desperate love had killed him. She was very sad and then she went to buy some medicament to save the bird, but it was too late. She was very regret and she was very sad too.She noticed the other bird moving back and forth on the edge of the cage. She could feel his great need for freedom. He needed to soar into the clear, blue sky.

Chợt cô cảm thấy chú chim mềm rũ ra. Cô xòe tay ra, bàng hoàng nhìn chú chim đã chết. Tình yêu quá mãnh liệt của cô đã vô tình giết chết chú chim. Cô ấy rất buồn và vội đi mua thuốc để cứu lấy chú chim, nhưng đã quá muộn. Cố thấy rất hối hận và rất buồn nữa. Cô thấy chú chim còn lại đang loạng choạng trong lồng. Cô có thể cảm nhận được khao khát lớn nhất của chú là được tự do. Chú khao khát được bay vút lên bầu trời trong xanh.

She lifted him from the cage and tossed him softly into the air. The bird circled once, twice, three times. The girl watched delightedly at the bird's enjoyment. So she decided to give up and she did not want to let the bird go away. She wanted the bird to live and so she let the bird fly. Her heart was no longer concerned with her loss. She wanted the bird to be happy.

Cô bắt chú chim ra khỏi chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú lên trời. Chú chim lượn một, hai rồi ba vòng. Cô gái hân hoan ngắm nhìn niềm vui sướng từ chú chim. Thế nên cô quyết định từ bỏ nhưng cô chẳng muốn để chú chim bay đi khỏi bên mình.  Cố muốn chú chim được sống và thế là cô để nó bay đi. Trong lòng cô giờ chẳng còn chút lo sợ mất chú chim nữa. Cô muốn chú chim được hạnh phúc.

Suddenly the bird flew closer and landed softly on her shoulder. It sang the sweetest melody that she had ever heard. So at that moment she felt very happy and she thought that she would not do that things, it was very stupid. 

The fastest way to lose love is to hold on it too tight; the best way to keep love is to give it wings. So sometimes we should let love fly free!
Bất chợt chú chim bay gần hơn và nhẹ nhàng đậu lên bờ vai của cô. Nó cất lên giai điệu ngọt ngào nhất mà cô chưa bao giờ được nghe. Trong khoảnh khắc đó, cô cảm thấy thật sự hanh phúc và cô nghĩ rằng mình sẽ không làm điều đó nữa, thật ngu ngốc. 
Cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là giữ nó thật chặt; cách tốt nhất để giữ được tình yêu là trao cho nó đôi cánh. Vậy nên đôi lúc chúng ta hãy để yêu thương được tự do bay lượng.
"Nếu bạn yêu một thứ gì đó, hãy để cho nó được tự do. Nếu nó quay lại với bạn, thì nó là của bạn, nếu nó không quay lại, thì ngay từ đầu nó chẳng bao giờ là của bạn." - Richard Bach

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2016

Dynamite Legacy - Di Sản từ Thuốc Nổ

In 1888, a man opened the newspaper to the obituary section to read about his beloved brother, who had just passed away. But one headline immediately caught his eye. It read: “The Merchant of Death is Dead.”
Vào năm 1888, một người đàn ông mở tờ báo ra để xem chuyên mục cáo phó về người anh trai thân yêu vừa qua đời của mình. Nhưng một dòng tiêu đề lập tức thu hút sự chú ý của ông, “Nhà buôn cái chết đã chết.”

It was the obituary of Alfred Nobel, an armaments manufacturer and the inventor of dynamite. The article continued, “He became rich by finding ways to kill more people faster than ever before. And yesterday, he died.”
Đó là mục cáo phó của chính Alfred Nobel, nhà sản xuất vũ khí và cũng là người phát mình ra thuốc nổ. Bài báo tiếp tục, “Ông ấy trở nên giàu có nhờ tìm ra cách để giết nhiều người hơn và nhanh hơn bao giờ hết. Và ngày hôm qua, ông ấy đã mất.”

While many readers were shocked by the caustic words in that obituary, the man having breakfast in Cannes, France, was probably the most shocked of all. Because “the man” was Alfred Nobel, and he was very much alive. The writer had confused Alfred with his older brother, Ludvig.
Trong khi nhiều người đọc tin thấy sửng sốt trước những ngôn từ châm biếm của mục cáo phó ấy, có lẽ người đàn ông đang dùng bữa sáng tại Cannes, nước Pháp, là người sửng sốt hơn cả. Bởi vì, “người đàn ông” ấy chính là Alfred Nobel, và ông vẫn còn sống sờ ra đó. Người viết đã nhầm lẫn Alfred với người anh trai Ludvig của ông.

Even more distressing to Alfred was how he was portrayed in the article. Is this how people saw him? Alfred invented dynamite for the building and mining industries, as a means of reducing the cost of drilling tunnels, blasting rocks, and building bridges. As an inherently peaceful man, he was saddened that it had later found another use in wars.
Nhưng Alfred còn đau buồn hơn khi ông biết mình được miêu tả như thế nào trong bài báo. Có phải trong mắt người khác ông là như vậy sao? Alfred phát mình ra thuốc nổ phục vụ cho việc xây dựng và khai thác khoáng sản, nhằm giảm thiểu chi phí khoan hầm, phá đá, và xây cầu. Vốn là người có bản tính ôn hòa, ông cảm thấy buồn phiền khi phát minh của mình được dùng trong mục đích chiến tranh.

As Alfred mourned the death of his older brother, he reflected on his own legacy - how he would be remembered after he died - and the impact his invention of dynamite would have on the world. When Alfred died eight years later, his will provided for the establishment of the Nobel Prizes. His fortune funded five “prizes” to be awarded annually. They recognized achievements in physics, chemistry, physiology or medicine, literature, and peace. Each prize included a cash award that today exceeds one million dollars.
Trong lúc Alfred đau buồn về cái chết của anh trai mình, ông suy ngẫm về di sản của mình - làm cách nào để người đời nhớ đến sau khi lìa đời - và tác động của phát minh thuốc nổ sẽ được biết đến trên toàn thế giới. Khi Alfred qua đời 8 năm sau đó, ông để lại di chúc thành lập Giải Nobel. Tài sản của ông để lại dùng để tài trợ cho 5 “giải thưởng” thường niên. Công nhận cho những thành tựu trong những lĩnh vực như vật lý, hóa học, sinh lý học hoặc y học, văn học, và hòa bình. Mỗi giải thưởng bao gồm một giải hiện kim mà ngày nay con số đó đã vượt hơn 1 triệu đô-la.

Alfred Nobel’s erroneous obituary provided a second chance - the opportunity to create a legacy that would make a positive impact in the world. Instead of buying “things” with his fortune, Nobel invested in people. That investment has made the world a significantly better place.
Bài cáo phó nhầm lẫn về Alfred Nobel mang đên cho ông một cơ hội thứ hai - cơ hội tạo ra một di sản sẽ tác động tích cực trên toàn thế giới. Thay vì mua sắm “của cải vật chất” với của tài sản của mình, Nobel đầu tư vào con người. Cách đầu tư đó đã giúp thế giới này trở nên tốt đẹp hơn rất nhiều.

The following steps can help you effectively manage your life, and achieve a more fulfilling balance between work and your personal life:
Những bước sau đây có thể giúp bạn làm chủ cuộc đời của mình  hiệu quả, và đạt được sự cân bằng giữa công việc và đời sống cá nhân trọn vẹn hơn.

1. Make time for others.
1. Dành thời gian cho người khác.

Structure your schedule so you have time for the most important people in your life. Unless you are intentional about time with your spouse, children, friends, and others, you will look back on your life and realize that much of your time was expended in less important areas.
Hãy lên lịch cho những người quan trọng nhất trong cuộc đời bạn. Nếu không chủ động sắp xếp thời gian cho bạn đời, con cái, bạn bè và người khác, thì sau này khi nhìn lại, bạn sẽ thấy mình dành phần lớn thời gian vào những thứ không quan trọng bằng.

Commit to being involved in your children’s activities. Remember, kids spell love T-I-M-E. If you can’t be a coach or a group leader, at least take time to attend games or other important events. You will soon forget whatever you sacrificed to get to the game, but your children will always remember that you were there.
Nỗ lực hết mình để tham gia vào những hoạt động cùng con. Hãy nhớ, đối với con trẻ, yêu thương được đánh vần bằng T-H-Ờ-I G-I-A-N. Nếu bạn không thể là huấn luyện viên hoặc trưởng nhóm của con, thì ít ra cũng phải tham dự những buổi thi đấu hoặc những sự kiện quan trọng khác của con. Bạn sẽ nhanh chóng quên đi những gì bạn đã phải hy sinh để đến xem trận đấu, nhưng con bạn sẽ nhớ mãi là bạn đã có mặt ở đó.

Make time for your spouse, too. If you’re like me, your spouse seems to get whatever is left over at the end of the day - and sometimes there’s nothing left! My relationship with Heidi has been best when we’ve been intentional about scheduling time alone with each other. Date nights are one way to make sure you’re investing quality time with your spouse.
Dành thời gian cho người bạn đời nữa. Nếu bạn giống như tôi, thì có vẻ vợ/chồng bạn chỉ có được chút ít thì giờ còn sót lại trong ngày - có lúc chẳng còn gì! Mối quan hệ giữa tôi và Heidi đã thăng hoa khi hai vợ chồng ngồi lại lên kế hoạch dành thời gian cho nhau. Những buổi tối hẹn hò là một cách để bạn đầu tư thời gian chất lượng cho vợ/chồng mình.

How about just sitting down at the dinner table together as many nights as possible? Sharing a meal together is a great way to connect and keep in touch with what’s going on in each other’s lives. Commit to being involved in the lives of the people you love. It’s one of the best investments you’ll ever make!
Vậy còn dùng bữa tối với nhau càng nhiều lần càng tốt thì sao? Dùng bữa cùng nhau là một cách rất tuyệt để kết nối và biết được những gì đang diễn ra trong cuộc sống của nhau. Hãy nỗ lực tham gia vào cuộc sống của những người mà bạn thương yêu. Đó là một trong những cách đầu tư khôn ngoan nhất!

2. Make time for yourself.
2. Dành thời gian cho bản thân.

While it’s important to invest in others, it’s just as important to invest in yourself. Exercising, learning about something you are interested in, working on a hobby, or enjoying a great book in your favorite reading chair are all ways that you can invest in yourself. Doing so will renew your mind and body, and provide more energy for the other demands in your life.
Mặc dù việc đầu tư vào người khác rất quan trọng, việc đầu tư vào chính mình cũng quan trọng không kém. Tập thể dục, học cái này cái kia, theo đuổi sở thích cá nhân, hoặc ngồi trên chiếc ghế yêu thích để đọc một quyển sách hay là những cách bạn có thể đầu tư cho chính mình. Những việc này giúp tâm trí và cơ thể bạn tươi mới, đồng thời cung cấp thêm năng lượng cho bạn đáp ứng những nhu cầu khác trong cuộc sống.

When I travel on a plane, the flight attendant always describes the emergency procedures. He or she instructs the passengers to put on their own oxygen mask before helping others. This is important not only when the cabin pressure is lost on a plane, but also in life. Make sure that “self-care” - taking care of yourself - is one of your “big rocks.”
Khi tôi đi máy bay, các tiếp viên hàng không luôn mô tả những việc cần làm trong tình huống khẩn cấp. Họ hướng dẫn hành khách mang mặt nạ dưỡng khí cho mình trước khi giúp đỡ người khác. Việc này là cần thiết không chỉ khi áp suất trong khoang máy bay giảm, mà còn trong cuộc sống.

3. Take time to “get away from it all.”
3. Dành thời gian "thoát khỏi cuộc sống".

Vacations are a great way to re-energize, and they serve as a reminder that there’s more to life than just work. Vacations can take many forms: An overnight stay with your spouse at a hotel in the area, a weekend away with your family, or a dream vacation that you and your family have been planning for months. Occasionally, I’ll even travel with just one of my children, for a special “daddy-daughter” or “daddy-son” trip.
Những kỳ nghỉ là một cách tuyệt vời để tái tạo năng lượng, và nó cũng nhắc nhở ta rằng cuộc sống còn nhiều thứ khác ngoài công việc. Có nhiều dạng nghỉ mát: Ngủ lại một đêm với người bạn đời tại một khách sạn trọng khu vực, cuối tuần đi chơi xa với gia đình, hoặc đi du lịch đến một nơi mà gia đình bạn đã lên kế hoạch từ nhiều tháng trước. Thỉnh thoảng, thậm chí tôi còn đi chơi riêng với từng đứa con trong một chuyến đi đặc biệt của "cha và con gái" hoặc "cha và con trai".


For great ideas on places to go and things to do, read books like 1,000 Places to See Before You Die or 100 Best Vacations to Enrich Your Life. Not only will you get specific ideas for wonderful trips, but these books will also cause you to think of other exciting possibilities for you and your family.
Để có thêm ý tưởng về điểm đến và làm gì, hãy đọc những quyển sách như 1,000 Places to See Before You Die (1.000 nơi cần đến trước khi chết) hoặc 100 Best Vacations to Enrich Your Life (100 kỳ nghỉ tuyệt vời nhất làm giàu cuộc sống của bạn). Không chỉ gợi ý cho bạn về những chuyến đi hấp dẫn mà những quyển sách này còn giúp bạn nghĩ ra nhiều hoạt động thú vị khác cho bạn và gia đình.

Vacations don’t have to be expensive, either. Camping is a great way to get away, and is relatively inexpensive. It’s also fun, and much easier, to plan activities in your community, or even at home. You can have just as much fun playing cards or a board game at home, or visiting
local attractions in the area.
Đi nghỉ cũng không nhất thiết phải tốn kém. Cắm trại cũng là một cách, và tương đối rẻ nữa. Cũng vui, và dễ thực hiện rất nhiều để lên kế hoạch cho những hoạt động trong vùng, hoặc thậm chí tại nhà. Bạn chỉ cần một bộ bài, hoặc một bộ cờ tại nhà, hoặc ghé thăm danh lam thắng cảnh trong vùng, là cũng đủ vui rồi.


4. Finally, treat each day as a gift from God.
4. Cuối cùng, hãy xem mỗi ngày bạn sống là một đặc ân từ Thượng Đế.

Ask yourself how, when you look back on your life, this day will matter. Remember that the best things in life aren’t things, and make a conscious effort to live your life in a way that meaningfully impacts the most important people in your life. In the jar that is your life, be sure to put the “big rocks” in first. When you do that, there will be plenty of room for the gravel, the sand, and the water.

Hãy tự hỏi xem bằng cách nào để ngày hôm nay trở nên ý nghĩa khi bạn nhìn lại cuộc đời mình sau này. Hãy nhớ, điều tuyệt diệu nhất trong cuộc sống không phải là vật chất, và hãy ý thức nỗ lực sống theo cách tạo ảnh hưởng tích cực đến những người quan trọng nhất trong cuộc đời bạn. Trong chiếc hũ chứa cuộc đời của bạn, hãy chắc rằng bạn đặt “những viên đá to” vào trước. Khi bạn thực hiện như vậy, sẽ có nhiều chỗ trống cho sỏi, cát và nước

--------------------
Đọc thêm bài Big Rocks: http://www.idich.com/2016/10/big-rocks-nhung-vien-to.html

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2016

Big Rocks - Những Viên đá To


I was on vacation with my wife and children in Florida, and as I sat at the edge of the pool watching my children swim, I thought about what a blessing it was to be enjoying our wonderful time together. As I reflected on the importance of “family time,” I was reminded of Dr. Stephen Covey’s story about “big rocks.” Here’s the story, which Covey tells in his book, First Things First:
Trong lúc đi nghỉ mát với vợ con ở Florida, khi ngồi bên mép hồ bơi trông chừng bọn trẻ bơi lội dưới nước, tôi nghĩ thật may mắn làm sao khi cả nhà được tận hưởng thời gian tuyệt vời bên nhau. Đang nghĩ ngợi về tầm quan trọng của “thời gian dành cho gia đinh”, tôi chợt nhớ đến câu chuyện về “những viên đá lớn” của Tiến sĩ Stephen Covey. Và đây là câu chuyện của Covey đã kể trong quyển sách First Things First (Tư Duy Tối Ưu) của ông:

In the middle of a seminar on time management, a lecturer decided to quiz the audience. Reaching under the table, he pulled out a wide-mouthed gallon jar and sat it on the table next to a platter covered with fist-sized rocks. “How many of these rocks do you think we can get in this jar?” he asked.
Giữa một hội thảo về quản lý thời gian, giảng viên quyết định đố khán giả. Từ dưới gầm bàn, ông lấy ra một hũ lớn miệng rộng và đặt nó trên bàn cạnh một đĩa chứa đầy những viên đá cỡ bằng nắm tay. Ông hỏi: “Các em nghĩ cái hũ này chứa được bao nhiêu viên đá như thế này?

After the students made their guesses, the seminar leader said, “Okay, let’s find out.” He put one rock in the jar, then another, then another - until no more rocks would fit. Then he asked, “Is the jar full?”
Sau khi sinh viên đoán, giảng viên đáp, “Được rồi, giờ hãy xem câu trả lời nhé”. Ông đặt một viên đá vào hũ, rồi thêm một viên nữa, rồi một viên nữa - đến khi không thể đặt thêm vào được nữa. Sau đó ông hỏi, “Cái hũ đã đầy chưa?”

Everyone could see that not one more of the rocks would fit, so they said, “Yes.” “Not so fast,” the teacher cautioned. From under the table he lifted out a bucket of gravel, dumped it into the
jar, and shook it. The gravel slid into all the little spaces left by the big rocks. Grinning, he asked once more, “Is the jar full?”
Mọi người đều có thể thấy chẳng thể đặt thêm một viên đá nào vào nữa nên họ nói, “Đầy rồi.” “Không nhanh vậy đâu.” giáo viên nhắc. Từ dưới gầm bàn ông lấy ra một xô sỏi, đổ nó vào hũ và lắc. Những viên sỏi trượt len lỏi vào những chỗ trống mà những viên đá chừa lại. Hé nụ cười tươi, ông hỏi một lại, “Cái hũ đã đầy chưa?”

A little wiser by now, the students responded, “Probably not.” “Good,” the teacher said. Then he reached under the table to bring up a bucket of sand. He started dumping sand in the jar. While the students watched, the sand filled the little spaces left by the rocks and gravel. Once more he looked at the class and asked, “Now is the jar full?”
Bây giờ thì đã sáng suốt hơn một chút, các sinh viên đáp trả, “Có lẽ là chưa.” “Tốt,” giảng viên nói. Rồi ông lại thò tay xuống bàn để lấy ra một xô cát. Ông bắt đầu đổ cát vào hũ. Trong lúc các sinh viên chứng kiến, những hạt cát lấp đầy các khoảng trống nhỏ mà đá và sỏi để lại. Lại một lần nữa ông nhìn cả lớp và hỏi, “Bây giờ thì lọ đã đầy chưa?”

“No!” everyone shouted back. “Good!” said the seminar leader, who then grabbed a pitcher of water and began to pour it in the jar. He got something like a quart of water into that jar before he said, “Ladies and gentlemen, the jar is now full. Can anybody tell me the lesson you can learn from this?”
“Chưa!” mọi người đồng thành. “Tốt lắm!” giảng viên nói,rồi ông lấy một bình nước và bắt đầu đổ vào trong hũ. Ông đổ được khoảng 1 lít nước vào hũ, sau đó ông tuyên bố, “Thưa quý vị, cái hũ giờ đã đầy. Ai có thể nói cho tôi biết bài học rút ra là gì từ việc này không?

An eager participant spoke up: “Well there are gaps in your schedule. And if you really work at it, you can always fit more into your life.” “No,” the leader said. “That’s not the point. The point is this: if I hadn’t put those big rocks in first, I would have never gotten them in.”
Một sinh viên hăng hái phát biểu: “Trong lịch làm việc của ta luôn có những chỗ trống. Nếu thật sự nỗ lực, ta luôn có thể làm được nhiều thứ hơn trong cuộc sống.” “Không,” giảng viên nói,“Đó không phải là điểm mấu chốt. Điểm mấu chốt ở đây là: nếu không đặt những viên đá lớn vào trước, tôi sẽ chẳng bao giờ bỏ đá vào lọ được.”

The lines have blurred
Làn ranh giới bị xóa mờ

Continuing with Dr. Covey’s metaphor, we all have big rocks, gravel, sand, and water in our lives. The natural tendency seems to favor the gravel, sand, and water, leaving little space for the big rocks. In an effort to respond to the “urgent,” the “important” is often set aside.
Tiếp tục với ẩn dụ của Tiến Sĩ Covey, chúng ta đều có những viên đá to, những viên sỏi, cát và nước trong cuộc sống của mình. Theo xu hướng tự nhiên có vẻ ta sẽ ưu tiên bỏ những viên sỏi, cát và nước vào trước, chừa lại một khoảng trống nhỏ cho những viên đá to. Lo xử lý những việc "khẩn cấp" trước mắt nên ta thường gạt những việc "quan trọng" sang một bên.

To be sure, creating a balanced life is more challenging than ever before in human history. There are more demands than ever on our time, and the line between work and personal life has faded. Part of the difficulty can be attributed to the way we use technology. Devices such as cell phones and laptops definitely give us more flexibility. You are now able to leave the office a little earlier
to attend your child’s sporting event, because you can chat with a client on your cell phone en route to the game.
Chắc chắn rằng việc tạo ra một cuộc sống cân bằng mang nhiều thử thách hơn bao giờ hết trong lịch sử nhân loại. Chưa bao giờ con người lại bận rộn đến thế, và ranh giới giữa công việc và cuộc sống cá nhân đã bị phai mờ.  Góp phần vào khó khăn là cách chúng ta sử dụng công nghệ. Những thiết bị như điện thoại di động và máy tính xách tay chắc chắn sẽ mang lại cho ta nhiều sự linh động hơn. Giờ đây bạn có thể rời khỏi văn phòng sớm hơn một chút để đến xem trận thi đấu thể thao của con mình, vì bạn vẫn có thể nói chuyện với khách hàng qua điện thoạidi động trên đường đến nơi thi đấu.

But technology has also tethered us to our work. How many times have you seen a mother working on her laptop at your son’s basketball game, or a dad talking on his cell phone while dining with his family at a local restaurant? How many times have you done something like this?
Technology is not the only culprit, however. For many people, work has become "big rocks", leaving little room for other areas of their lives —their families, friends, health, and happiness.
Nhưng công nghệ cũng trói buộc chúng ta với công việc. Đã bao nhiêu lần bạn bắt gặp một bà mẹ làm việc cặm cụi trên chiếc máy tính trong lúc trận thi đấu bóng rổ của con mình đang diễn ra, hoặc một ông bố vừa nói chuyện trên điện thoại trong lúc đang dùng bữa tối với gia đình trong nhà hàng? Đã bao nhiêu lần bạn hành động như vậy rồi? Tuy vậy, công nghệ không phải là thủ phạm duy nhất. Với nhiều người, công việc đã trở thành “viên đá lớn”, chừa lại khoảng trống nhỏ nhoi cho những khía cạnh khác trong cuộc sống - gia đình, bạn bè, sức khỏe, và hạnh phúc.

This is occurring for a couple of reasons:
Điều này xảy ra vì một số nguyên nhân sau:

• With smaller staffs expected to do the same amount of work, people find themselves working crazy hours simply to keep their heads above water and keep their jobs. Because the traditional 9 to 5 day is a thing of the past, people are having a harder time putting limits on how much they work.
•  Nguồn nhân lực bị cắt giảm nhưng khối lượng công việc không đổi, người ta phải làm việc điên cuồng hàng giờ để theo kịp tiến độ và giữ được việc làm. Thời gian làm việc 8 tiếng một ngày đã là dĩ vãng, con người giờ đây khó mà đặt ra giới hạn cho công việc.
• Work provides the satisfaction of meeting challenges and goals. The structure of work, its clear feedback system, and the ability to “accomplish” often seems lacking at home. For example, if you close a big sale at work, chances are you’ll be lauded, will earn additional money, and may even receive a promotion. Spending an afternoon at the beach with your family, by comparison, might not bring the same recognition. The “accomplishment” is not so obvious, and the rewards are not as evident and concrete.
•  Công việc mang đến cảm giác thỏa mãn khi chinh phục những thử thách và mục tiêu. Cấu trúc của công việc, hệ thống phản hồi rõ ràng, và khả năng “đạt được thành quả” có vẻ không hiện diện trong cuộc sống gia đình. Ví dụ, khi bạn chốt được một đơn hàng lớn trong công việc, rất có thể bạn sẽ được khen ngợi, sẽ kiếm được thêm tiền, hay thậm chỉ còn có thể được thăng tiến. Đem so sánh, nếu dành thời gian cả buổi chiều ở bãi biển với gia đình, lại có thể chẳng mang lại cho bạn sự công nhận tương tự. “Thành quả đạt được” không thật sự rõ ràng, và phần thưởng bạn nhận được cũng chẳng rõ ràng và cụ thể.

• The lines have blurred, and it’s now easier than ever to work at home, and play at work. The problem is, this lack of separation, or “balance,” deteriorates the quality of life in both areas. The unfortunate result is that the issues at home are more difficult to resolve, and you potentially trade work success for quality of life with the most important people in your life.
•  Làn ranh giới bị xóa nhòa, giờ đây ta có thể làm việc ở nhà và giải trí ở công ty dễ dàng hơn bao giờ hết. Vấn đề là sự thiếu rạch ròi, hoặc “thiếu cân bằng”, làm suy giảm chất lượng cuộc sống gia đình lẫn công việc. Hệ quả không may là những vấn đề trong gia đình trở nên khó khăn để giải quyết hơn, và bạn dễ đánh đổi chất lượng cuộc sống với bên cạnh những người quan trọng trong cuộc đời để có được thành công trong công việc.

Someone once observed, “No one on their deathbed wishes they had more time in the office.” Unfortunately, it often takes a deathbed (or similar) experience for this realization to set in.
Một người từng nhận định, “Không một ai trong giờ phút hấp hối lại ước mình có nhiều thời gian để làm việc hơn.” Đáng tiếc là chỉ đến khi hấp hối (hoặc tương tự như thế) người ta mới nhận ra điều đó.

Achieving balance
Đạt được sự cân bằng

Achieving balance requires true effort and commitment. At first you’ll have to consciously schedule time for yourself, your family, and friends. You may have to fight the urge to do something “more important.” For some, “personal time” can seem frivolous. But in reality, spending time with the people you love is the best way to leave your imprint on them—and on the world.
Để đạt sự cân bằng cần thật sự nỗ lực và quyết tâm. Lúc đầu, bạn phải ý thức sắp xếp thời gian cho bản thân, gia đình và bạn bè. Bạn có thể phải chống lại sự thôi thúc làm những việc “quan trọng hơn.” Với một số người, “thời gian cá nhân” có vẻ phù phiếm. Nhưng trên thực tế, dành thời gian với những người bạn yêu thương là cách tốt nhất để lại dấu ấn trong lòng họ - và cả trên thế giới này.

There’s no better way to leave the world a better place than to transfer your values and integrity to your children, friends, co-workers, and other people who are important to you. In the grand scheme of things, this is infinitely more important than anything you could possibly do at work.
Chẳng có cách nào tốt hơn để làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn là đem giá trị  và sự chính trực của bạn cho con cái, bạn bè, đồng nghiệp, và cả những người quan trọng khác của bạn. Sau khi cân nhắc mọi thứ, việc này rõ ràng quan trọng hơn bất kỳ trách nhiệm nào của bạn ở công ty.

And while you may not receive immediate accolades, when all is said and done your life will be much more satisfying if you cultivate meaningful relationships with those around you.

Mặc dù bạn có thể chẳng nhận được lời tuyên dương gì ngay lập tức, nhưng sau cùng thì cuộc đời của bạn sẽ được thỏa mãn hơn rất nhiểu nếu bạn vung đắp những mối quan hệ ý nghĩa xung quanh mình.

Thứ Sáu, 1 tháng 4, 2016

Teaching The Cinderella Fairytale: China vs. America - Giảng dạy câu chuyện Cô bé Lọ lem: Kiểu Trung Quốc và kiểu Mỹ


How an American teacher would tell the story of Cinderella
Cách giáo viên người Mỹ dạy về câu chuyện Cô Bé Lọ Lem


    The bell rings, and students run into the classroom. This class, they’re discussing Cinderella. The teacher asks one student to come up to the front and summarize the story. The student quickly finishes, the teacher thanks him, and starts to ask the class questions.
      Tiếng chuông reo lên, và các học sinh chạy ùa vào lớp học. Buổi học này, họ sẽ thảo luận về truyện Cô bé Lọ Lem. Người giáo viên yêu cầu một học sinh lên và kể tóm tắc câu chuyện. Em học sinh tóm tắc một cách nhanh chóng, rồi người giáo viên cảm ơn em học sinh, và rồi bắt đầu đặt những câu hỏi cho những học sinh.

Teacher: Which characters did you like in the story? Disliked? Why?
Giáo viên: Các em thấy thích và không thích những nhân vật nào trong câu chuyện? Và tại sao?

Student: I like Cinderella, and the Prince. I don’t like Cinderella’s step-mother and her step-sisters. Cinderella is kind, adorable, and beautiful. Her stepmother and stepsisters were mean to her.
Học sinh: Em thích Cô bé Lọ lem và cả hoàng tử nữa. Em không thích bà mẹ kế và mấy cô chị kế của Cô bé Lọ lem. Cô bé Lọ lem tốt bụng, đáng yêu và còn xinh đẹp nữa. Bà mẹ kế và các chị kế kia đối xử không tốt với Lọ lem.

Teacher: If at midnight, Cinderella didn’t get into her pumpkin carriage in time, what would happen?
Giáo viên: Vậy nếu vào lúc nữa đêm mà Lọ lem không kịp lên cỗ xe đúng giờ thì chuyện gì sẽ xảy ra?
Student: She would turn back into a servant with dirty clothes. Aiya, that would be horrible.
Học sinh: Cô ấy sẽ trở lại với bộ dạng đầy tớ trong bộ áo quần bẩn thỉu. Eo ôi, sẽ kinh khủng lắm.

Teacher: Therefore, you must be punctual, otherwise you might land yourself in trouble. Also, look around, all of you are very clean and pretty, you need to make sure to be clean or your friends will be scared of you. Girls, you need to be extra careful. When you grow up and go out on a date, if you’re not careful and your boyfriend sees you when you’re very ugly, he might be so scared that he faints. (The teacher pretends to faint, class laughs).
Giáo viên: Vậy nên, các em nhất thiết phải là người đúng giờ, nếu không các em có thể sẽ tự gây rắc rối cho mình. Ngoài ra, hãy nhìn xung quanh mà xem, tất cả các em đều trông rất sạch đẹp . Vậy các em hãy nên chắc rằng mình luôn ăn mặc sạch đẹp, hoặc nếu không bạn bè của các em sẽ lánh xa. Các cô gái nghe này, các em lại nên càng cẩn trọng hơn nữa. Khi các em lớn lên và ra ngoài hẹn hò với bạn trai, nếu em không cẩn trọng và bạn trai thấy được em khi em đang ăn mặc trông rất lượm thượm thì anh ta có lẽ sẽ hoảng đến mức ngất lịm luôn đấy. (Giáo viên giả vờ ngất người, cả lớp cười ồ lên).

Teacher: Alright, next question: If you were Cinderella’s stepmother, would you stop Cinderella from attending the ball? You have to be honest!
Giáo viên: Được rồi, câu tiếp theo nào: Nếu em là bà mẹ kế của Lọ lem, em có ngăn cản Lọ lem đến tham dự vũ hội hay không? Các em phải trả lời thật lòng đấy nhé!

(After a while, a student raised his hand and answers): Yes, if I were Cinderella’s stepmother, I would stop her from attending the ball too.
(Một lúc sau, một em học sinh giờ tay lên và trả lời): Dạ có ạ, nếu em là mẹ kế của Lọ lem, em cũng sẽ ngăn cản Lọ lem đi dự vũ hội.

Teacher: Why?
Giáo viên: Tại sao vậy?

Student: Because, because I love my own daughter, I want her to be queen.
Học sinh: Bởi vì... vì em yêu con gái của mình, em muốn con mình thành hoàng hậu.

Teacher: Yes. The stepmothers we see all seem to be evil, they don’t treat others well enough, but they treat their own children very well. Do you understand? They’re not evil, they just can’t love other children like they love their own.
Giáo viên: Đúng thế. Những người mẹ kế mà chúng ta thấy, dường như tất cả là những người xấu, họ không đối xử đủ tốt với những người khác, nhưng họ lại đối xử với con cái của họ rất tốt. Các em có hiểu không? Họ không phải người xấu, mà họ chỉ chẳng thể yêu những đứa trẻ khác như họ yêu con cái của mình mà thôi.

Teacher: Children, next question. Cinderella’s stepmother forbade her to go to the ball and even locked her in. But why was she able to go and become the most beautiful girl there?
Giáo viên: Câu hỏi tiếp này các em: Bà mẹ kế của Lọ lem ngăn cấm cô đi dự vũ hội và rồi thậm chí khóa cửa nhốt cô ấy. Nhưng tại sao Lọ lem vẫn có thể đến và còn trở thành cô gái xinh đẹp nhất ở vũ hội?

Student: Because her fairy godmother helped her, gave her beautiful clothes, turned a pumpkin into a carriage and dogs and mice into servants.
Học sinh: Vì bà tiên đỡ đầu đã giúp cô ấy, khoác tặng vào người cô một bộ vái xinh đẹp, biến quả bí thành một cỗ xe ngựa, và còn biến những chú chó và chuột thành những người hầu của cô.

Teacher: You’re right! Think, if Cinderella didn’t have her fairy godmother’s help, she couldn’t have attend the ball, right?
Giáo viên: Em nói đúng rồi! Nghĩ mà xem, nếu Lọ lem không có sự giúp đỡ của bà tiên, cô ấy đã chẳng thể đến tham dự vũ hội, đúng không nào?

Students: Yes!
Những học sinh: Dạ đúng ạ!

Teacher: If the dogs and mice weren’t willing to help her, could she have successfully returned home at the last minute?
Giáo viên: Nếu những chú chó và chuột không giúp Lọ lem, liệu cô ấy có thể thành công quay về nhà vào phút cuối hay không?

Student: No, then she would have successfully scared the prince (the class laughs).
Học sinh: Không ạ, lúc đó thì cô ấy sẽ làm hoàng tử hú hồn thành công đấy ạ (cả lớp cười rộ).

Teacher: Cinderella had the help of her fairy godmother, but just the godmother’s help wasn’t enough. So children, no matter where you are, we all need friends. Our friends might not be fairies, but we need them. I hope you all have many, many friends.
Giáo viên: Cô bé Lọ lem đã có được sự giúp đỡ từ bà tiên, nhưng chỉ với sự giúp đỡ của bà tiền thôi thì vẫn chưa đủ. Vậy nên các em này, cho dù các em có ở hoàng cảnh nào đi nữa, tất cả chúng ta luôn cần những người bạn. Những người bạn của chúng ta có thể không phải là tiên, nhưng ta vẫn cần đến họ. Nên tôi mong các em có thật... thật nhiều bạn bè.

Teacher: Now, please think about this, if Cinderella gave up because her stepmother wouldn’t allow her to go to the ball, would she have become the the prince’s bride?
Giáo viên: Bây giờ, hãy nghĩ đến điều này, nếu như Lọ lem bỏ cuộc vì bà mẹ kế đã không để cô ấy đến vũ hội, liệu cô ấy có trở thành cô dâu của hoàng tử được hay không?

Student: No! If that were case, she wouldn’t have been at the ball. The prince wouldn’t have met her, got to know her, and fell in love with her.
Học sinh: Không thể ạ. Nếu trong hoàn cảnh đó thì cô ấy sẽ không có mặt ở vũ hội. Hoàng tử sẽ không gặp mặt cô ấy, biết đến cố ấy, và yêu cô ấy.

Teacher: That’s right! If Cinderella didn’t want to go to the ball, even if her stepmother didn’t stop her, or even supported her, it would’ve been useless. Who decided whether she was going to attend the ball?
Giáo viên: Đúng thế đấy! Nếu Lọ lem không muốn đễn vũ hội, ngay cả khi nếu bà mẹ kế không ngăn cấm, hoặc thậm chí còn ủng hộ cô đến vũ hội đi nữa, thì điều đó cũng chẳng có nghĩa gì. Vậy ai là người quyết quyết định Lọ lem sẽ đến vũ hội được hay không?

Student: Herself.
Học sinh: Là chính cô ấy.

Teacher: Therefore, children, even though Cinderella didn’t have her mother to love her, had a stepmother that didn’t love her, she still loved herself. Because she loved herself, she went to look for what she wanted. If you feel as if you’re not loved, or like Cinderella has a stepmother that doesn’t love you, what should you do?
Giáo viên: Bởi thế, các em này, ngay cả khi Lọ lem không có được tình yêu của mẹ dành cho cô, và còn có một người mẹ kế chẳng thương yêu gì cô, cô ấy vẫn yêu bản thân mình. Bởi vì cô ấy yêu bản thân, nên cô ấy theo đuổi điều cô ấy mong muốn. Nếu em cảm thấy như em không được thương yêu, hoặc giống như Lọ lem có một người mẹ kế chẳng yêu thương gì mình, em sẽ làm gì?

Students: Love ourselves!
Những học sinh: Phải biết yêu chính mình ạ!

Teacher: That’s right, nobody can stop you from loving yourself. If you feel that others don’t love you, you need to love yourself; if nobody gives you opportunities, you should create opportunities for yourself. If you really love yourself, then you will find what you need. Nobody could stop Cinderella from attending the ball, nobody could stop her from becoming the queen, except herself, right?
Giáo viên: Đúng thế đấy, không ai có thể ngăn cản em yêu chính bản thân mình. Nếu em cảm thấy những người khác không yêu mến em, em nên biết yêu chính mình; nếu chẳng ai trao cho em cơ hội, em phải biết tạo ra nhiều cơ hội cho chính mình. Nếu em thật sự biết yêu bản thân mình, thì em sẽ tìm được cho mình thứ em muốn có. Chẳng ai có thể ngăn Lọ lem đến dự vũ hội, chẳng ai có thể ngăn cô ấy trở thành hoàng hậu, trừ chính cố ấy, đúng không nào?

Student: Yes!!!
Học sinh: Đúng ạ!!!

Teacher: Last question, what’s illogical about this story?
Giáo viên: Câu hỏi cuối cùng, em có thấy điều gì phi lý về câu chuyện này không?

(After a long time) Student: After midnight everything would transform back, but Cinderella’s glass slippers didn’t.
(Sau một hồi lấu) Học sinh: Sau nữa đêm mọi thứ đều sẽ trở về ban đầu, nhưng đôi giày thủy tinh của Lọ lem lại không.

Teacher: Wow, you’re so smart! See, even great authors make mistakes. Therefore, making mistakes isn’t something to be afraid of. I guarantee, if one of you became an author in the future, you’ll be better than this one! Do you believe me?
Giáo viên: Ôi, các em thật thông mình! Các em thấy không, ngay cả nhà văn vĩ đại còn mắc lỗi mà. Bởi vậy, sai lầm đâu phải là điều gì để phải đáng sợ. Tôi cam đoạn, nếu một trong các em trở thành nhà văn trong tương lai, các em sẽ làm tốt hơn thế này nữa! Các em có tin tôi không?

The children cheer.
Bọn trẻ vỗ tay hoan hô.


A Chinese teacher tells the story of Cinderella 

Giáo viên người Trung Quốc giảng dạy qua truyện Cô bé Lọ lem


Bell rings, students and teacher walk into the classroom.
Tiếng chuông reo lên và các học sinh và giáo viên bước vào lớp học.

Teacher: Greetings classmates.
Giáo viên: Chào các em.

Students: Greeeee—tiiiinngs—teeeeeacher—(elongated vowels)
Học sinh: Chào..ào..àoooo..... thầy...ầyyyyy... ạạạ.... (giọng dài lê lết) 

Teacher: Today’s class, we’re discussing the story of Cinderella. Did everybody study in advance?
Giáo viên: Buổi học của hôm nay, chúng ta sẽ thảo luận về câu chuyện của Cô bé Lọ lem. Các em đã học qua trước chưa nào?

Student: Study? Who doesn’t know the story.
Học sinh: Học ư? Ai mà chẳng biết câu chuyện đó chứ.

Teacher: Is Cinderella a story from the Grimm Brothers or Hans Andersen? Who was the author? When was the author born? What were the major events in the author’s life?
Giáo viên: Vậy câu chuyên Cô bé Lọ lem là có từ Anh em nhà Grimm hay Hans Andersen? Ai là tác giả? Tác giả được sinh vào khi nào? Các sự kiện lớn lao trong đời của tác giả là gì?

Student: …..(In whispers) It’s all in the book, can’t you read it yourself?
Học sinh: (Thì thào)..... Tất cả đều ở trong sách đấy ạ, thầy không thể tự đọc sao?

Teacher: What is the theme of the story?
Giáo viên: Thế chủ để của câu chuyện là gì?

Student: This must be an exam question.
Học sinh: Đây chắc hẳn phải là một câu hỏi khảo thí.

Teacher: Alright, let’s start. Who can divide the story into segments, and tell me why you would divide it this way?
Giáo viên: Được rồi, chúng ta bắt đầu nào. Ai có thể chia nội dung câu chuyện thành các đoạn, và nói cho tôi biết tại sao các em lại chia theo cách này?

Student: The beginning and ending segments include…the body segment…in total…
Học sinh: Đoạn mở đầu và đoạn kết thúc gồm... phần thân bài... trong tổng...

Teacher: This segment has very vivid descriptions and precise wording. Everybody copy it 5 times for homework, then recite it. I will check next class.
Giáo viên: Đoạn này có rất nhiều mô tả sinh động và từ ngữ chính xác. Các em chép lại 5 lần cho bài tập về nhà, sau đó đọc thuộc lòng nhé. Tôi sẽ kiểm tra vào buổi học sau.

Student: More recitations!?
Học sinh: Phải đọc thuộc lòng nữa à!?

Teacher: Not long, just that segment.
Giáo viên: Không nhiều đâu, chỉ đoạn đó thôi.

Student: So many recitation from other classes already…
Học sinh: Có quá nhiều bài học đọc thuộc lòng từ những buổi học khác rồi...

Teacher: Let’s start analyzing the text, everybody pay attention. Who’s going to read the first part? Everyone else pay attention and conclude what the theme of this segment is.
Giáo viên: Hãy bắt đầu phân tích văn bản nào, các em chú ý. Em nào sẽ đọc đoạn đầu tiên nào?

Student: (reads)
Học sinh: (đọc)

Teacher: Here, everyone focus on this sentence. It is a metaphor. Is this a direct or indirect metaphor? Why does the author use it?
Giáo viên: Đây, các em tập trung vào câu này. Nó  là một câu ẩn dụ. Vậy đây là một câu ẩn dụ trực tiế hay gián tiếp? Tại sao tác giả sử dụng nó?

Students: (N number of people start to sleep)
Học sinh: (một số người bắt đầu ngủ)

Teacher: Everyone notice this word, if we exchange it with another, why does it not work as well as the original?
Giáo viên: Các em chú ý từ này, nếu chúng ta thay nó với một từ khác, tại sao nó không còn hay như từ gốc ban đầu nữa? 

Students: (More people start to sleep)
Học sinh: (Thêm nhiều người bắt đầu ngủ)

Teacher: Did everybody notice, if I exchange the position of this phrase with the following one, does it work? Why or why not?
Giáo viên: Các em đã chú ý rằng, nếu ta đổi vị trí của cụm từ này cụm từ sau đây, nó có ổn không? Tại sao, và tại sao lại không?

Student: I’m not you, how could I notice? (More people fall asleep)
Học sinh: Em đâu phải là thầy, sao em chú ý được chứ? (Thêm nhiều người chìm vào ngủ gục)

Teacher: Why are you all sleeping? You need to know, if you don’t pay attention in class, you won’t get good grades, if your grades are not good enough you won’t go to university, and if you don’t go to university you can’t…You need to understand these principles of life!!!
Giáo viên: Tại sao tất cả các em đều ngủ vậy chứ? Các em nên biết rằng, nếu các em không tập trung trong lớp, các em sẽ không đạt được điểm tốt, nếu điểm của các em không đủ tốt thì các em sẽ không thể vào đại học, và nếu các em không học đại học thì các em không thể... Các em nên hiểu được những nguyên tắc này của cuộc sống!!!


Popular Posts